totha_huong
03-17-2011, 08:49 AM
Ðức Phật nói không nên định nghĩa về Niết Bàn. Niết Bàn là để chứng, chứ không phải để hiểu, định nghĩa thế nào đi nữa cũng không đúng và sẽ đem lại sự hiểu lầm. Tuy nhiên như thế, nhưng rõ ràng tối thiểu Niết Bàn vẫn có 1 định nghĩa, đó là "diệt".
Ðức Phật thường diễn tả Niết Bàn qua thí dụ về lửa củi : Lửa từ củi bắt cháy, khi củi cháy hết, thì lửa tắt "diệt". Chúng ta không nên hỏi ngọn lửa ấy ra sao, đi về đâu, sau khi củi tiêu hết. Ngọn lửa ấy tận diệt hoàn toàn, không còn chút dư sót lại, nó "tịch diệt". Mặt khác, Niết Bàn thường được coi như là sự "giải thoát" khỏi tất cả mọi khổ đau, đồng thời cũng là một sự an lạc cứu cánh vĩnh viễn, thế nên "giải thoát" và "an lạc" cũng là hai ý nghĩa chính yếu nữa của Niết Bàn. Trong ba ý nghĩa này, "tịch diệt" vẫn là ý nghĩa lạ lùng khó hiểu hơn hết. Tại sao tịch diệt lại là an lạc, lại là giải thoát ? Ðể giải tỏa nghi vấn này, chúng ta cần phải hiểu rõ cho tận cùng hết về mọi ý nghĩa sướng và khổ, từ trong thế giới vật chất lên cho đến thế giới tâm linh. Dưới đây là các nhận định sơ lược cốt gợi ý cho chúng ta tìm hiểu vào sâu hơn nữa.
1. Bản chất hay ý nghĩa của sự sống hữu tình là tìm sướng tránh khổ
Bản chất của hữu tình nói chung, và của con người nói riêng, luôn luôn là tìm đủ mọi cách để đạt được sự sung sướng như ý, và tránh đi tất cả những gì khó chịu không như ý. Ai cũng sợ khổ đau, cũng sợ mọi thứ khuấy động não phiền, ai cũng sợ bệnh, sợ già và sợ chết. Và ai cũng ham muốn được sung sướng, được an lành, muốn khỏe mạnh, giầu sang phú quý, muốn danh vọng quyền thế, và muốn mãi mãi được thụ hưởng. Sự phát triển không ngừng của đời sống, sự không ngớt tìm tòi và hoạt động không ngơi của con người, là để làm gì vậy ? Rõ ràng là để nâng cao đời sống lên. Và nâng cao chỉ có nghĩa là làm sao cho sống sướng ra và bớt khổ đi, an lạc ra và bớt lo âu sợ hãi đi. Ngay cho đến các tội ác hay chiến tranh thật sự cũng chỉ là để đạt được sự sung sướng cho chính mình, hay để dẹp trừ đi một mối đe dọa âu lo nào đó. Con người tạo ra đủ thứ, kể cả thiện lẫn ác, giúp người hay hại người gì đi nữa, thì cũng chỉ là để đạt được sự thỏa mãn cho các ý muốn của chính mình, và khi ý muốn được thỏa mãn, con người cảm thấy sung sướng. Ngay cho đến một cử động nhỏ thôi của cơ thể hay của tâm ý cũng là để tránh cái khổ tìm cái sướng, như khi ngồi lâu tê chân khó chịu, chúng ta động đậy duỗi chân ra để được thoải mái hơn, khi tâm trí làm việc nhiều đâm căng thẳng, chúng ta phải tác ý đến một việc gì khác như giải trí vậy, để tâm thức được thoải mái hơn. Tóm lại, hữu tình có nghĩa là "sống", và sống có nghĩa là một hoạt động tránh khổ để được sướng.
2. Ý nghĩa sướng của hữu tình
Sướng hay khổ đều là các cảm giác, Phật pháp gọi là "thọ". Theo Phật pháp thời thọ này thường được phân làm ba loại, và nếu phân theo thân và tâm, thì sẽ thành đến sáu loại. Ba loại thuộc thân là khổ, sướng (lạc), và không khổ không sướng. Ba loại thuộc tâm là lo âu (ưu), mừng vui (hỉ), và không lo không mừng. Bản chất tự nhiên của cảm thọ vốn là loại không khổ không sướng. Như Câu Xá Luận giải thích, tác dụng tự nhiên của nó chỉ là "lãnh nạp", có nghĩa là "thâu nhận vào" : Thọ là ngưỡng cửa đầu tiên để thâu nhận các cảnh bên ngoài vào trong tâm thức. Nơi giai đoạn này thọ chỉ thâu nhận chứ không biết gì là sướng hay khổ. Vậy thì do đâu mà thọ ấy lại trở thành sướng hay khổ ? Phật pháp phân tâm thức thành ra bốn lãnh vực là thọ, tưởng, hành, và thức. Trong đó thọ, tưởng chỉ là công cụ chuyển đem đối tượng ngoại cảnh vào trong tâm thức. Thức chỉ là chủ tể để nhận biết đối tượng ấy. Ngoài các công năng ấy ra, thọ, tưởng và thức hoàn toàn thụ động đối với đối tượng. Ðối tượng ấy ra sao ? Ðáng ghét hay đáng thương, dễ ưa hay đáng sợ ...v...v... đều là do công năng "tạo tác" của hành. Thọ trở thành sướng hay khổ thật sự đều do công năng của hành mà ra.
Hành này là gì ? Tất cả mọi hoạt động của tâm thức, mọi "thái độ" của tâm thức, đối với các cảnh đối tượng, trừ thọ, tưởng và thức ra, đều được gọi chung là hành. Có thể nói hành là hoạt động tạo tác của tâm thức. Nó đưa ra danh từ tên gọi và đem lại ý nghĩa cho tất cả mọi vật, nó khởi lên thái độ phán xét và thẩm định của tâm thức đối với tất cả mọi giá trị, phẩm tính của vạn vật, nó khơi động lên các hoạt động của tâm ý và của thân khẩu. Nó là năng lực của tâm thức, là năng lực chủ đng của sự sống. Nó còn thường được Phật pháp gọi là "tư", nghĩa thông thường là "ý muốn".
Do ý muốn phát sinh mà sướng mới được thành lập. Tại sao vậy ? Bởi bao giờ cũng vậy, tâm thức chỉ hoạt động, hay nói đúng hơn chỉ phát lực hoạt động, là khi nào nó thấy khao khát, thấy ham muốn một đối tượng đáng ham muốn nào đó. Lúc ấy nó khởi lên một "ý muốn" sở hữu hay sở đắc đối tượng ấy. Và khi nó đạt được đối tượng ấy rồi, tâm thức cảm thấy thỏa mãn, có nghĩa là mt cảm giác "hài lòng, mãn nguyện" phát sinh. Cảm giác hài lòng, mãn nguyện này chính là ý nghĩa sung sướng, hạnh phúc của tất cả mọi loài hữu tình. Nếu tâm thức không có một ý muốn gì hết, không có một mong mỏi, ước ao gì hết, thì tuy nó vẫn có một cảm giác "tối thiểu" là không khổ không sướng, song tâm thức ấy sẽ bị chúng ta coi như là không còn cảm giác gì nữa, chỉ là bởi vì nó không tạo nên được một cảm trạng buồn vui, sướng khổ gì cả. Ðiều đó chứng tỏ "ý muốn" làm nên sự sung sướng.
3. Ý nghĩa khổ của hữu tình
Một điều nữa mà làm cho chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa này, đó là một khi ý muốn không thành, tâm thức cảm thấy thất vọng, sầu não, nghĩa là nó thấy "khổ". Khi định nghĩa về khổ, Phật pháp thường đưa ra bốn nghĩa như "thương nhau mà phải xa nhau", "ghét nhau mà phải gần nhau", "cầu mong mà không thành tựu" (cầu bất đắc khổ), và "phải chịu cưu mang mt thân tâm sống động" (ngũ ấm xí thịnh khổ). Hai ý nghĩa đầu, trên căn bản, không khác gì với ý nghĩa thứ ba. Bởi khi thương nhau người ta luôn cầu mong được ở gần nhau, nay phải xa nhau tức cầu mong không thành tựu, thế nên cảm thấy khổ. Ghét nhau cũng thế, đã ghét thì "muốn" là đừng gặp gỡ nhau, nay phải chịu chung đụng, nghĩa là điều mong muốn xa cách không thành, thế nên cảm thấy khổ. Ngay cả ý nghĩa thứ tư đi nữa cũng không ra ngoài ý nghĩa "cầu bất đắc khổ". Tại sao vậy ? Tất cả các sự thể mà tâm thức sợ hãi không ưa muốn như già, bệnh, chết, phiền não, âu lo v.v... đều từ thân tâm này mà ra. Tâm thức mong muốn trẻ mãi, không bệnh, không chết, không âu lo, không phiền não, song một khi đã mang lấy một thân tâm như thế, là chắc chắn các mong muốn kia sẽ không bao giờ thành tựu được, thế nên có thân có tâm tức là có khổ rồi. Ngay cả các nghĩa khổ khác như "chuyển biến" (hành khổ), "tiêu tán hoại mất" (hoại khổ), cũng đều là do chúng đi ngược lại với ý muốn thường có mãi, vĩnh viễn. Tóm lại, tất cả mọi ý nghĩa của khổ đều dựa vào chỗ "không toại ý", "không mãn nguyện" mà lập nên. Nên ngược lại, điều ấy chứng tỏ rằng toại ý, mãn nguyện, là sướng.
Ðức Phật thường diễn tả Niết Bàn qua thí dụ về lửa củi : Lửa từ củi bắt cháy, khi củi cháy hết, thì lửa tắt "diệt". Chúng ta không nên hỏi ngọn lửa ấy ra sao, đi về đâu, sau khi củi tiêu hết. Ngọn lửa ấy tận diệt hoàn toàn, không còn chút dư sót lại, nó "tịch diệt". Mặt khác, Niết Bàn thường được coi như là sự "giải thoát" khỏi tất cả mọi khổ đau, đồng thời cũng là một sự an lạc cứu cánh vĩnh viễn, thế nên "giải thoát" và "an lạc" cũng là hai ý nghĩa chính yếu nữa của Niết Bàn. Trong ba ý nghĩa này, "tịch diệt" vẫn là ý nghĩa lạ lùng khó hiểu hơn hết. Tại sao tịch diệt lại là an lạc, lại là giải thoát ? Ðể giải tỏa nghi vấn này, chúng ta cần phải hiểu rõ cho tận cùng hết về mọi ý nghĩa sướng và khổ, từ trong thế giới vật chất lên cho đến thế giới tâm linh. Dưới đây là các nhận định sơ lược cốt gợi ý cho chúng ta tìm hiểu vào sâu hơn nữa.
1. Bản chất hay ý nghĩa của sự sống hữu tình là tìm sướng tránh khổ
Bản chất của hữu tình nói chung, và của con người nói riêng, luôn luôn là tìm đủ mọi cách để đạt được sự sung sướng như ý, và tránh đi tất cả những gì khó chịu không như ý. Ai cũng sợ khổ đau, cũng sợ mọi thứ khuấy động não phiền, ai cũng sợ bệnh, sợ già và sợ chết. Và ai cũng ham muốn được sung sướng, được an lành, muốn khỏe mạnh, giầu sang phú quý, muốn danh vọng quyền thế, và muốn mãi mãi được thụ hưởng. Sự phát triển không ngừng của đời sống, sự không ngớt tìm tòi và hoạt động không ngơi của con người, là để làm gì vậy ? Rõ ràng là để nâng cao đời sống lên. Và nâng cao chỉ có nghĩa là làm sao cho sống sướng ra và bớt khổ đi, an lạc ra và bớt lo âu sợ hãi đi. Ngay cho đến các tội ác hay chiến tranh thật sự cũng chỉ là để đạt được sự sung sướng cho chính mình, hay để dẹp trừ đi một mối đe dọa âu lo nào đó. Con người tạo ra đủ thứ, kể cả thiện lẫn ác, giúp người hay hại người gì đi nữa, thì cũng chỉ là để đạt được sự thỏa mãn cho các ý muốn của chính mình, và khi ý muốn được thỏa mãn, con người cảm thấy sung sướng. Ngay cho đến một cử động nhỏ thôi của cơ thể hay của tâm ý cũng là để tránh cái khổ tìm cái sướng, như khi ngồi lâu tê chân khó chịu, chúng ta động đậy duỗi chân ra để được thoải mái hơn, khi tâm trí làm việc nhiều đâm căng thẳng, chúng ta phải tác ý đến một việc gì khác như giải trí vậy, để tâm thức được thoải mái hơn. Tóm lại, hữu tình có nghĩa là "sống", và sống có nghĩa là một hoạt động tránh khổ để được sướng.
2. Ý nghĩa sướng của hữu tình
Sướng hay khổ đều là các cảm giác, Phật pháp gọi là "thọ". Theo Phật pháp thời thọ này thường được phân làm ba loại, và nếu phân theo thân và tâm, thì sẽ thành đến sáu loại. Ba loại thuộc thân là khổ, sướng (lạc), và không khổ không sướng. Ba loại thuộc tâm là lo âu (ưu), mừng vui (hỉ), và không lo không mừng. Bản chất tự nhiên của cảm thọ vốn là loại không khổ không sướng. Như Câu Xá Luận giải thích, tác dụng tự nhiên của nó chỉ là "lãnh nạp", có nghĩa là "thâu nhận vào" : Thọ là ngưỡng cửa đầu tiên để thâu nhận các cảnh bên ngoài vào trong tâm thức. Nơi giai đoạn này thọ chỉ thâu nhận chứ không biết gì là sướng hay khổ. Vậy thì do đâu mà thọ ấy lại trở thành sướng hay khổ ? Phật pháp phân tâm thức thành ra bốn lãnh vực là thọ, tưởng, hành, và thức. Trong đó thọ, tưởng chỉ là công cụ chuyển đem đối tượng ngoại cảnh vào trong tâm thức. Thức chỉ là chủ tể để nhận biết đối tượng ấy. Ngoài các công năng ấy ra, thọ, tưởng và thức hoàn toàn thụ động đối với đối tượng. Ðối tượng ấy ra sao ? Ðáng ghét hay đáng thương, dễ ưa hay đáng sợ ...v...v... đều là do công năng "tạo tác" của hành. Thọ trở thành sướng hay khổ thật sự đều do công năng của hành mà ra.
Hành này là gì ? Tất cả mọi hoạt động của tâm thức, mọi "thái độ" của tâm thức, đối với các cảnh đối tượng, trừ thọ, tưởng và thức ra, đều được gọi chung là hành. Có thể nói hành là hoạt động tạo tác của tâm thức. Nó đưa ra danh từ tên gọi và đem lại ý nghĩa cho tất cả mọi vật, nó khởi lên thái độ phán xét và thẩm định của tâm thức đối với tất cả mọi giá trị, phẩm tính của vạn vật, nó khơi động lên các hoạt động của tâm ý và của thân khẩu. Nó là năng lực của tâm thức, là năng lực chủ đng của sự sống. Nó còn thường được Phật pháp gọi là "tư", nghĩa thông thường là "ý muốn".
Do ý muốn phát sinh mà sướng mới được thành lập. Tại sao vậy ? Bởi bao giờ cũng vậy, tâm thức chỉ hoạt động, hay nói đúng hơn chỉ phát lực hoạt động, là khi nào nó thấy khao khát, thấy ham muốn một đối tượng đáng ham muốn nào đó. Lúc ấy nó khởi lên một "ý muốn" sở hữu hay sở đắc đối tượng ấy. Và khi nó đạt được đối tượng ấy rồi, tâm thức cảm thấy thỏa mãn, có nghĩa là mt cảm giác "hài lòng, mãn nguyện" phát sinh. Cảm giác hài lòng, mãn nguyện này chính là ý nghĩa sung sướng, hạnh phúc của tất cả mọi loài hữu tình. Nếu tâm thức không có một ý muốn gì hết, không có một mong mỏi, ước ao gì hết, thì tuy nó vẫn có một cảm giác "tối thiểu" là không khổ không sướng, song tâm thức ấy sẽ bị chúng ta coi như là không còn cảm giác gì nữa, chỉ là bởi vì nó không tạo nên được một cảm trạng buồn vui, sướng khổ gì cả. Ðiều đó chứng tỏ "ý muốn" làm nên sự sung sướng.
3. Ý nghĩa khổ của hữu tình
Một điều nữa mà làm cho chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa này, đó là một khi ý muốn không thành, tâm thức cảm thấy thất vọng, sầu não, nghĩa là nó thấy "khổ". Khi định nghĩa về khổ, Phật pháp thường đưa ra bốn nghĩa như "thương nhau mà phải xa nhau", "ghét nhau mà phải gần nhau", "cầu mong mà không thành tựu" (cầu bất đắc khổ), và "phải chịu cưu mang mt thân tâm sống động" (ngũ ấm xí thịnh khổ). Hai ý nghĩa đầu, trên căn bản, không khác gì với ý nghĩa thứ ba. Bởi khi thương nhau người ta luôn cầu mong được ở gần nhau, nay phải xa nhau tức cầu mong không thành tựu, thế nên cảm thấy khổ. Ghét nhau cũng thế, đã ghét thì "muốn" là đừng gặp gỡ nhau, nay phải chịu chung đụng, nghĩa là điều mong muốn xa cách không thành, thế nên cảm thấy khổ. Ngay cả ý nghĩa thứ tư đi nữa cũng không ra ngoài ý nghĩa "cầu bất đắc khổ". Tại sao vậy ? Tất cả các sự thể mà tâm thức sợ hãi không ưa muốn như già, bệnh, chết, phiền não, âu lo v.v... đều từ thân tâm này mà ra. Tâm thức mong muốn trẻ mãi, không bệnh, không chết, không âu lo, không phiền não, song một khi đã mang lấy một thân tâm như thế, là chắc chắn các mong muốn kia sẽ không bao giờ thành tựu được, thế nên có thân có tâm tức là có khổ rồi. Ngay cả các nghĩa khổ khác như "chuyển biến" (hành khổ), "tiêu tán hoại mất" (hoại khổ), cũng đều là do chúng đi ngược lại với ý muốn thường có mãi, vĩnh viễn. Tóm lại, tất cả mọi ý nghĩa của khổ đều dựa vào chỗ "không toại ý", "không mãn nguyện" mà lập nên. Nên ngược lại, điều ấy chứng tỏ rằng toại ý, mãn nguyện, là sướng.