cogangmatu
02-17-2011, 04:34 PM
Om Mani Padme Hum
Án Ma Ni Bát Di Hồng
Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là “ Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “ Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.
Om: Quy mệnh
Mani: Viên ngọc như ý
Padme: Bên trong hoa sen
Hum: Tự ngã thành tựu
Theo âm Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.
Thông thường người ta không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “ Ngọc quý” biểu hiện cho Bồ-đề tâm ( bodhicitta). “ Hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn đạt Niết-bàn vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này cũng được xem là tương ưng với sáu cõi tái sinh của dục giới.
Các thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của khoảng trống không.
Bắt nguồn từ khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức.
Trong phạm vi tương đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai lạc.
Các câu chú thường là tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Ví dụ, OM MANI PADME HUNG ( ÁN MA - NI BÁT DI HỒNG) là cách gọi Ngài Quán Âm ( Chenrezig). Từ quan điểm tuyệt đối, Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen, Ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của Ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của Ngài; như chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách nầy, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã của vị thần ; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.
Thần chú OM MANI PADME HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bố Tát Quan Âm được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OM và HUNG.
- OM: tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm nầy.
- MANI: nghĩa là châu báu
- PADME: phát âm theo Sankrit, hoặc PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa hoa sen
- HUNG: tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú.
- MANI: nói về châu báu mà Bố Tát Quan Âm cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên Ngài Bồ Tát Quán Âm xuyên qua những phẩm hạnh của Ngài.
Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên Ngài Bồ Tát Quán Âm. Mặt khác, khi niệm câu chú OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú nầy là sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bồ Tát. Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.
Các vị Bồ Tát và thần chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả.
Phẩm chất xác thực của mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp.
Trước tiên, hãy để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi:
- OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời ;
- MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la
- NI, cánh cửa cõi người
- PAD, cánh cửa cõi súc sanh
- ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ ;
- HUNG, cánh cửa cõi địa ngục.
Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa :
- OM thanh tịnh hóa bản thân ;
- MA thanh tịnh hóa lời nói ;
- NI thanh tịnh hóa tâm thức ;
- PAD thanh tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn ;
- ME thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng ;
- HUNG thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.
Mỗi âm tiết là một bài cầu nguyện :
- OM lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật ;
- MA lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật ;
- NI lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị Phật ;
- PAD lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị Phật ;
- ME lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật ;
- HUNG gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị Phật.
Sáu âm tiết liên hệ đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa :
- OM liên hệ đến sự rộng lượng ;
- MA, đạo đức ;
- NI, kiên trì, nhẫn nhịn,
- PAD, chuyên cần,
- ME, chú tâm,
- HUNG, trí tuệ.
Sáu âm tiết cũng liên quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia:
- OM liên hệ đến Ratnasambhava ( Bảo - Sanh Phật)
- MA, Amaghasiddi ( Bất - Không - Thành - Tựu Phật)
- NI, Vajradhara ( Kim Cương Trì/ Phổ - Hiền Bồ Tát)
- PAD, Vairocana ( Lô - Xá - Na Phật)
- ME, Amitabha ( A - Di - Đà Phật)
- HUNG, Akshobya ( A - Súc - Bệ Phật)
Cuối cùng, sáu âm tiết liên hệ đến sáu trí tuệ:
- OM = Trí tuệ thanh thản, an bình
- MA = trí tuệ hoạt động
- NI = trí tuệ tự tái sanh
- PAD = trí tuệ pháp giới
- ME = trí tuệ phân biệt
- HUNG = trí tuệ như gương.
Án Ma Ni Bát Di Hồng
Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là “ Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “ Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.
Om: Quy mệnh
Mani: Viên ngọc như ý
Padme: Bên trong hoa sen
Hum: Tự ngã thành tựu
Theo âm Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.
Thông thường người ta không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “ Ngọc quý” biểu hiện cho Bồ-đề tâm ( bodhicitta). “ Hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn đạt Niết-bàn vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này cũng được xem là tương ưng với sáu cõi tái sinh của dục giới.
Các thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của khoảng trống không.
Bắt nguồn từ khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức.
Trong phạm vi tương đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai lạc.
Các câu chú thường là tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Ví dụ, OM MANI PADME HUNG ( ÁN MA - NI BÁT DI HỒNG) là cách gọi Ngài Quán Âm ( Chenrezig). Từ quan điểm tuyệt đối, Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen, Ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của Ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của Ngài; như chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách nầy, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã của vị thần ; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.
Thần chú OM MANI PADME HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bố Tát Quan Âm được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OM và HUNG.
- OM: tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm nầy.
- MANI: nghĩa là châu báu
- PADME: phát âm theo Sankrit, hoặc PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa hoa sen
- HUNG: tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú.
- MANI: nói về châu báu mà Bố Tát Quan Âm cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên Ngài Bồ Tát Quán Âm xuyên qua những phẩm hạnh của Ngài.
Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên Ngài Bồ Tát Quán Âm. Mặt khác, khi niệm câu chú OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú nầy là sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bồ Tát. Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.
Các vị Bồ Tát và thần chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả.
Phẩm chất xác thực của mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp.
Trước tiên, hãy để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi:
- OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời ;
- MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la
- NI, cánh cửa cõi người
- PAD, cánh cửa cõi súc sanh
- ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ ;
- HUNG, cánh cửa cõi địa ngục.
Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa :
- OM thanh tịnh hóa bản thân ;
- MA thanh tịnh hóa lời nói ;
- NI thanh tịnh hóa tâm thức ;
- PAD thanh tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn ;
- ME thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng ;
- HUNG thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.
Mỗi âm tiết là một bài cầu nguyện :
- OM lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật ;
- MA lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật ;
- NI lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị Phật ;
- PAD lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị Phật ;
- ME lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật ;
- HUNG gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị Phật.
Sáu âm tiết liên hệ đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa :
- OM liên hệ đến sự rộng lượng ;
- MA, đạo đức ;
- NI, kiên trì, nhẫn nhịn,
- PAD, chuyên cần,
- ME, chú tâm,
- HUNG, trí tuệ.
Sáu âm tiết cũng liên quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia:
- OM liên hệ đến Ratnasambhava ( Bảo - Sanh Phật)
- MA, Amaghasiddi ( Bất - Không - Thành - Tựu Phật)
- NI, Vajradhara ( Kim Cương Trì/ Phổ - Hiền Bồ Tát)
- PAD, Vairocana ( Lô - Xá - Na Phật)
- ME, Amitabha ( A - Di - Đà Phật)
- HUNG, Akshobya ( A - Súc - Bệ Phật)
Cuối cùng, sáu âm tiết liên hệ đến sáu trí tuệ:
- OM = Trí tuệ thanh thản, an bình
- MA = trí tuệ hoạt động
- NI = trí tuệ tự tái sanh
- PAD = trí tuệ pháp giới
- ME = trí tuệ phân biệt
- HUNG = trí tuệ như gương.